Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

Báo Mỹ lý giải việc Việt Nam hoãn điện hạt nhân

Báo Mỹ lý giải việc Việt Nam hoãn điện hạt nhân


Theo trang tin Stratfor (Mỹ), việc hoãn xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 công suất 4.400 MW có thể làm suy yếu an ninh năng lượng của Việt Nam nhưng là hành động đúng đắn để đảm bảo an toàn


Đề phòng một thảm kịch như Fukushima


Trong bài viết có tiêu đề “Sự trì hoãn xây dựng nhà máy điện hạt nhân sẽ làm gia tăng lo ngại về an ninh năng lượng của Việt Nam” xuất bản hồi cuối tháng 1/2014, mạng tin tình báo Stratfor của Mỹ cho biết: “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thông báo việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên 4.400 MW Ninh Thuận 1, dự kiến sẽ bắt đầu trong năm nay, sẽ bị hoãn đến năm 2020 do lo ngại về an toàn và hiệu quả. Thủ tướng Dũng cũng đã yêu cầu Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) sớm xây dựng nhà máy điện khí 5.000 MW để bù đắp lượng điện thiếu hụt từ việc lùi thời gian xây nhà máy điện hạt nhân”.


Theo Stratfor, sự chậm trễ này có thể làm suy yếu an ninh năng lượng của Việt Nam. Trước mắt, Việt Nam sẽ phải tăng nhập khẩu nguồn thủy điện, than và khí tự nhiên hóa lỏng để bù đắp cho phần cung cấp từ điện hạt nhân. Điều này sẽ tạo áp lực lên khả năng của Việt Nam trong việc duy trì cán cân thương mại và bảo đảm an toàn chuỗi cung ứng năng lượng bằng đường hàng hải. Tuy nhiên, Hà Nội hy vọng việc kéo dài thời gian sẽ giúp Việt Nam chuẩn bị tốt hơn cho kế hoạch theo đuổi năng lượng hạt nhân trong dài hạn.


Bình luận về hành động này, mạng tin Stratfor đã trích dẫn lời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng chính yêu cầu về hiệu quả và an toàn đã dẫn đến quyết định trì trên. “Ông Thủ tướng Việt Nam cũng nhấn mạnh Hà Nội sẽ không đẩy nhanh tiến độ dự án nếu không đạt các tiêu chuẩn cần thiết”, Stratfor viết. Trong khi đó, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân cũng nói thêm rằng việc khởi công xây dựng nhà máy có thể bị trì hoãn cho tới năm 2016 hoặc 2017. Trước đó, Hà Nội tuyên bố bắt đầu xây dựng nhà máy vào năm 2014 để nhà máy bắt đầu hoạt động vào đầu những năm 2020.


Cũng theo Stratfor, Việt Nam trước đó đã trì hoãn dự án điện hạt nhân này và “sự trì hoãn là vấn đề phổ biến đối với những quốc gia mới tiếp cận năng lượng hạt nhân”.


Nghi ngờ về khả năng của Việt Nam trong đảm bảo an toàn năng lượng hạt nhân đã gia tăng thời gian gần đây. Tuần trước, Giám đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế Yukiya Amano đã gặp gỡ với giới chức tỉnh Ninh Thuận và ban quản lý dự án và khuyên Việt Nam không nên vội vã với dự án này. Đây là động thái mới nhất trong bối cảnh lo ngại trong nước và quốc tế gia tăng về việc Việt Nam thiếu kỹ năng, công nghệ và cơ sở hạ tầng để vận hành một nhà máy hạt nhân an toàn.


Nga, quốc gia có Tập đoàn điện hạt nhân Rosatom trúng thầu xây dựng nhà máy, đang tìm cách giải quyết những lo lắng này nhằm hỗ trợ xuất khẩu hạ tầng và dịch vụ điện hạt nhân của mình. Các nhà khoa học Nga đang đào tạo các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, kỹ sư và lực lượng quản lý để đảm bảo Việt Nam có đầy đủ kỹ năng cần thiết vận hành một nhà máy hạt nhân dân sự, trong đó có cả bài học về cách thức phản ứng với một cuộc khủng hoảng như sự kiện Fukushima Daiichi tại Nhật Bản. Nga cũng có kế hoạch mở một trung tâm đào tạo khoa học hạt nhân ở Việt Nam.


An toàn hạt nhân là mối quan tâm hàng đầu đối với giới lãnh đạo Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế. Hà Nội cũng đã nhận thức được khó khăn cực lớn sẽ phải đối mặt trong việc quản lý bất kỳ cuộc khủng hoảng hạt nhân nào - thậm chí một sự kiện nhỏ hơn nhiều so Fukushima - vì nguồn lực và khả năng kém hơn nhiều so với Nhật Bản.


Giải pháp thay thế


Với kế hoạch chậm nhưng chắc về điện hạt nhân, Việt Nam phải tìm kiếm các nguồn năng lượng khác để đáp ứng nhu cầu điện tới năm 2020 và xa hơn. Hiện nay, phần lớn nguồn điện Việt Nam được tạo ra từ khí tự nhiên, thủy điện và than, với lượng điện chiếm 52% tiêu thụ. Nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam từng dự kiến sẽ giúp tăng nguồn điện hạt nhân thêm 2% vào năm 2020 và 10% vào năm 2030, trong khi giảm thị phần điện bằng khí đốt từ 41% xuống còn 14% vào năm 2030 và thị phần thuỷ điện từ 28% xuống còn 9%. Sản lượng điện từ than đá lại dự kiến tăng từ 20% lên 58%. Kế hoạch của Việt Nam nhằm khai thác than tại chỗ, chi phí thấp để sản xuất điện trong tương lai nhằm giảm nhập khẩu năng lượng từ 6% hiện nay xuống còn 4% vào năm 2030.


Các nguồn cung năng lượng của Việt Nam: Gió 0,1%; Thủy điện 28,3%; Khí đốt 41,3%; Dầu 4,5%; Than 19,8% Nhập khẩu 5,9% (nguồn: Stratfor)


Nhu cầu điện năng của Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng (tốc độ tăng trung bình hàng năm đã vượt 12% trong thập kỷ qua) và bất kỳ sự trì hoãn nào thêm đối với điện hạt nhân sẽ càng buộc Việt Nam phải nhập khẩu năng lượng nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng. Hà Nội đã nhập khẩu thủy điện từ Lào và Trung Quốc, một sự phụ thuộc chiến lược mà Việt Nam muốn hạn chế tối đa. Hà Nội cũng đang nỗ lực tăng cường sản xuất điện từ than nhằm tăng công suất phát điện từ 6.000 MW lên 36.000 MW vào năm 2020. Trữ lượng than cũng đã được phát triển, dù chủ yếu tập trung ở phía Bắc, trái ngược với phía Nam, nơi có nhu cầu điện tăng nhanh. Việt Nam sẽ trở thành nước nhập khẩu than trong nửa cuối của thập kỷ này để đáp ứng nhu cầu điện than của mình.


Ngoài than, Việt Nam cũng cần phải tăng nhập khẩu khí đốt tự nhiên. Yêu cầu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rằng PetroVietnam phải bù đắp cho sự chậm trễ của nhà máy điện hạt nhân bằng một nhà máy điện khí tự nhiên mới với nguồn tiêu thụ khoảng 5-7 tỷ m3 khí mỗi năm. Chi phí xây dựng một nhà máy điện chạy bằng khí tự nhiên chỉ bằng một nửa so với nhà máy hạt nhân. Chi phí cụ thể trong trường hợp này dự kiến sẽ dao động trong khoảng 8-10 tỷ USD. Các nhà máy khí tự nhiên có thể được xây dựng một cách nhanh chóng và với bí quyết công nghệ đã có sẵn trong nước. Tuy nhiên, nhu cầu ngày càng tăng của Việt Nam đối với khí tự nhiên đã gây ra sự thiếu hụt nguồn cung. Việc thiếu khí đốt tự nhiên sẽ ảnh hưởng không chỉ đến mạng lưới điện mà tới lĩnh vực tiêu dùng và phân bón. Việc tìm ra một giải pháp cho vấn đề này sẽ đòi hỏi lượng đầu tư đáng kể để khai thác khí đốt ngoài khơi và cơ sở hạ tầng liên quan để đưa khí tự nhiên vào đất liền. Ngoài ra, cần nguồn đầu tư trong tương lai để xây dựng các nhà máy nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng.


Tuy nhiên, ngay cả khi khai thác tối đa, Việt Nam vẫn khoảng 6 tỷ m3 khí tự nhiên vào năm 2020 và 16 tỷ m3 vào năm 2025. Đó là lý do tại sao Hà Nội đã đề xuất xây dựng một số nhà máy phục vụ nhập khẩu khí hóa lỏng và đã ký một thỏa thuận nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng từ Nga. Dự án đầu tiên Cái Mép - Thị Vải, dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào giữa năm 2016 với công suất hàng năm 1-2 tỷ m3. Dự án thứ hai, Mỹ Sơn, sẽ hoạt động vào năm 2018 với công suất ban đầu 2,3 tỷ m3, mở rộng đến 8 tỷ m3 vào đầu những năm 2020. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là chưa có dự án nào bắt đầu được khởi công sau khi bị trì hoãn nhiều lần.


Ý nghĩa chiến lược


Nhu cầu phải tăng nhập khẩu năng lượng đã làm nổi bật những lợi thế chiến lược mà Việt Nam hy vọng cuối cùng có thể có được từ chương trình hạt nhân dân sự. Trong khi năng lượng hạt nhân sẽ tăng cường nguồn năng lượng tự cung tự cấp cho Việt Nam, thu hút đầu tư từ Nga và Nhật Bản nhằm bảo đảm sự can dự lợi ích sâu sắc của các cường quốc này vào Việt Nam. Sự chậm trễ này sẽ ảnh hưởng đến các kế hoạch tăng xuất khẩu công nghệ hạt nhân của Nga và có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đối với các nhà sản xuất nhà máy điện hạt nhân Nhật Bản, quốc gia hy vọng sẽ xây dựng Ninh Thuận 2 sau khi hoàn thành nhà máy đầu tiên.


Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản cho biết sẽ theo dõi tình hình trong trường hợp sự chậm trễ vượt ngoài tầm dự án của Nga và có thể ảnh hưởng đến dự án 9,6 tỷ USD của Nhật Bản tại Vĩnh Hải, dự án dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2020. Sự chậm trễ trong việc phát triển các nhà máy điện hạt nhân do nước ngoài đầu tư của Việt Nam cũng sẽ làm chậm chiến lược ràng buộc lợi ích kinh tế của các nước này đối với an ninh năng lượng và ổn định kinh tế của Việt Nam.


An ninh nguồn cung năng lượng và nhu cầu hút đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục thúc đẩy kế hoạch khởi động một chương trình hạt nhân trong dài hạn và thiết lập nền tảng cho việc xây dựng thêm nhiều các lò phản ứng hạt nhân và tăng nguồn cung cấp điện từ trong nước. Tuy nhiên, hiện nay bất kỳ kế hoạch điện hạt nhân dường như đều có khả năng bị trì hoãn. Điều này đặt ra vấn đề về việc Hà Nội phải tập trung đáp ứng nhu cầu năng lượng ngay lập tức càng nhanh, càng rẻ thì càng tốt, chờ thêm thời gian để xây dựng các nền tảng thể chế cho một chương trình hạt nhân trong tương lai. Bên cạnh đó, việc trì hoãn cũng cho thấy nhận thức của giới lãnh đạo Việt Nam về sự cần thiết phải điều chỉnh những tham vọng năng lượng và nhìn thấy những thách thức nghiêm trọng trong việc quản lý sản xuất năng lượng trong nước, cán cân thương mại và an ninh hàng hải.


Lam Giang


The Infonet




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NỆM LIÊN Á