Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Chứng khoán Mỹ tăng mạnh nhất 3 năm

Chứng khoán Mỹ tăng mạnh nhất 3 năm


Kết thúc phiên giao dịch ngày 18/12, S&P 500 và Dow Jones đồng loạt tăng điểm mạnh.


Cụ thể chỉ số S&P 500 tăng 2,4% lên 2.061,23 điểm vào lúc 16h00 tại New York. Chỉ số này đã tăng 4,5% trong 2 ngày qua - mức tăng lớn nhất kể từ tháng 11/2011. Chỉ số Dow Jones cũng tăng 2,4% lên 17.778,15 điểm, ghi nhận phiên tăng điểm mạnh nhất 3 năm.


Cổ phiếu của tất cả 10 lĩnh vực chính mà S&P 500 theo dõi đều tăng giá, trong đó tăng mạnh nhất là cổ phiếu công nghệ và năng lượng. Hệ số P/E của S&P 500 hiện đã tăng lên 18,2.


Khoảng 8,7 tỷ cổ phiếu được giao dịch trao tay trên các sàn chứng khoán Mỹ, cao hơn 22% so với khối lượng giao dịch trung bình của 3 tháng qua. Chỉ số VIX, theo dõi biến động giá của hợp đồng quyền chọn tại Mỹ, giảm 14% xuống 16,81 điểm.


Quyết sách tháng 12 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) rõ ràng đã cứu thị trường chứng khoán toàn cầu khỏi làn sóng bán tháo mạnh gần đây khi giá dầu lao dốc thảm hại. Chỉ số MSCI Toàn thế giới tăng 2%, MSCI Thị trường mới nổi tăng 1,9% và Stoxx Europe 600 cũng ghi nhận phiên tăng mạnh nhất 3 năm với 3%.


Thị trường chứng khoán Mỹ cũng được hỗ trợ lớn sau báo cáo trợ cấp thất nghiệp hôm qua. Theo đó, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu giảm 6.000 đơn xuống 289.000 đơn trong tuần kết thúc vào ngày 13/12. Báo cáo này một lần nữa cho thấy về đà cải thiện bền vững của thị trường lao động Mỹ trong thời gian gần đây.


Hôm qua, các nhà hoạch định chính sách của Fed cũng bày tỏ niềm tin vào thị trường lao động Mỹ với dự báo rằng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống còn khoảng 5,2% - 5,3% vào cuối năm 2015. Thị trường lao động cải thiện mạnh sẽ thúc đẩy niềm tin và chi tiêu tiêu dùng của người dân Mỹ, từ đó thúc đẩy kinh tế Mỹ tăng trưởng bền vững hơn, theo nhận định của giới chuyên gia.




Xuất khẩu dầu thô Việt Nam sắp mất lãi

Xuất khẩu dầu thô Việt Nam sắp mất lãi


Dữ liệu từ Tổng cục Hải quan cho biết giá dầu thô xuất khẩu của Việt Nam bình quân trong 15 ngày đầu tháng 12 đã giảm xuống còn 73USD/ thùng, giảm 43% so với tháng 7.


Cụ thể, Việt Nam đã xuất khẩu 370 ngàn tấn dầu, thu về 190 triệu USD. Tính từ đầu năm, sản lượng xuất khẩu là 8,66 triệu tấn, giá trị 6,91 tỷ USD.


Trong năm ngoái, sản lượng xuất khẩu là 8,4 triệu tấn (7,2 tỷ USD) và năm 2012 là 9,2 triệu tấn (8,2 tỷ USD).


Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2014 Việt Nam đã khai thác hơn 15 triệu tấn dầu thô. Trong đó, liên doanh Vietsopetro báo cáo khai thác được 5,1 triệu tấn. Chi phí khai thác dầu thô ở Việt Nam dao động từ mức 30 đến 70 USD/thùng.


Như vậy, với mức giá xuất khẩu trung bình là 73 USD, những thùng dầu thô khai thác ở chi phí 70 USD có lãi rất thấp. Nếu giá tiếp tục giảm trong thời gian tới, hoạt động khai thác dầu thô sẽ không còn lãi và có thể lỗ.


Đáng ngạc nhiên là lượng dầu xuất khẩu của Việt Nam không giảm khi mặt hàng này mất giá mạnh trong khoảng 3 tuần gần đây, sau cuộc họp của OPEC hôm 27/11.


Con số 370 ngàn tấn xuất khẩu trong nửa đầu tháng 12 là cao nhất trong 4 tháng gần đây. Nửa đầu tháng 11, lượng xuất khẩu chỉ là 337 ngàn tấn, con số này trong tháng 10 là 355 ngàn tấn và tháng 9 là 155 ngàn tấn.


Hôm qua, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết trên VTV rằng: "Nếu giá dầu tiếp tục giảm, sản xuất sẽ không còn có lãi, hoặc có lãi nhưng không đáng kể. Nếu giảm khoảng 30% tổng sản lượng khai thác theo kế hoạch hiện nay thì tăng trưởng GDP có thể giảm từ 0,8 - 1,2%".


Theo Bizlive




Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

2014 - Năm thành công trong bình ổn tỷ giá

2014 - Năm thành công trong bình ổn tỷ giá


Đến nay, mức biến động VND so với USD chỉ hơn 1% so với thời điểm đầu năm. Doanh nghiệp là đối tượng nhìn thấy rõ rệt nhất tác động của 1 năm tỉ giá ổn định.


Giá USD tại các NHTM sau ngày đầu tuần tăng nóng, có nơi chỉ cách trần cho phép vài đồng đã hạ nhiệt trở lại. Diễn biến tăng của đồng USD trong giai đoạn chỉ còn vài ngày nữa là hết năm được xem là dễ hiểu và theo yếu tố mùa vụ. Trước đó, NHNN đã cam kết đến hết năm 2014 sẽ không điều chỉnh tỉ giá. Nhìn lại cả năm 2014, đây tiếp tục được đánh giá là năm thành công trong công tác ổn định đồng tiền.


Nhu cầu USD thường tăng cao hơn vào dịp cuối năm, vì đây là lúc doanh nghiệp nhập khẩu thanh toán đơn hàng. Những tháng cuối năm nay, có một số thời điểm thị trường chứng kiến áp lực đồng USD tiến sát trần cho phép. Hiện tượng này được nhìn nhận là yếu tố mùa vụ, năm nào cũng gặp. Về thực chất, quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ổn định trong cả năm nay. Ngân hàng không thiếu USD và sẵn sàng đáp ứng đủ nhu cầu của doanh nghiệp.


Ông Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế nhận định: "Năm nay cơ bản là ổn định, quan hệ cung cầu bình thường, xuất siêu nhiều hơn năm ngoái, thanh toán nợ nước ngoài vẫn trong tỉ lệ Bộ Tài chính công bố. Một chút cầu cao hơn năm ngoái là vay ngoại tệ, đâu đó cũng có những gợn sóng nhỏ".


Đến nay, mức biến động VND so với USD chỉ hơn 1% so với thời điểm đầu năm. Doanh nghiệp là những người nhìn thấy rõ rệt nhất tác động của 1 năm tỉ giá ổn định, và những bình ổn trên thị trường vào giai đoạn cuối năm này.


Kinh tế vĩ mô ổn định trong năm 2014, cán cân thanh toán thặng dư 10 tỉ USD, cán cân thương mại tích cực là những lý do chính hỗ trợ bình ổn thị trường. Ở chiều ngược lại, tỉ giá ổn định cũng góp phần hỗ trợ đắc lực sự vận hành của nền kinh tế.


Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Giám đốc Khối nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ - Ngân hàng BIDV cho biết: "Tính thanh khoản của thị trường được cải thiện đáng kể, phục vụ đắc lực sự vận hành của nền kinh tế".


Nhu cầu nhập khẩu, trả nợ vay, thanh toán, giao dịch ngoại tệ từ nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, kiều hối, hoạt động thông suốt giữa các khách hàng với ngân hàng và trên thị trường liên ngân hàng.


Theo ước tính, doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng tăng khoảng 20% so với năm 2013. Quá trình USD hóa giảm từ 25% xuống còn 11% trong năm nay. Đầu tuần này, NHNN cũng dự báo tỉ giá sẽ biến động với biên độ 2% trong năm 2015.


Theo Vtv




NHNN chỉ đạo tăng cường công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các TCTD

NHNN chỉ đạo tăng cường công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các TCTD


Ngày 16/12/2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có văn bản số 9332/NHNN-TTGSNH yêu cầu NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố tăng cường chỉ đạo công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn.


Theo văn bản này, thời gian qua NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố đã chỉ đạo quyết liệt các TCTD trên địa bàn triển khai tích cực và đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại và xử lý nợ xấu theo đúng chỉ đạo của Thống đốc NHNN. Kết quả triển khai thực hiện tại các tỉnh, thành phố đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch và lộ trình đặt ra tại các Đề án của toàn Ngành.


Để tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai theo đúng mục tiêu, lộ trình đã đề ra tại Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của các TCTD”, tại văn bản vừa ban hành Thống đốc NHNN yêu cầu Giám đốc NHNN chi nhánh khẩn trương triển khai các công việc sau:


Tiếp tục chỉ đạo quyết liệt, giám sát chặt chẽ các TCTD trên địa bàn thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ cơ cấu lại, giám sát thường xuyên diễn biến nợ xấu và thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu của các TCTD trên địa bàn theo các chỉ đạo của Thống đốc NHNN;


Thường xuyên đánh giá việc triển khai công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu để xác định rõ những nội dung/mục tiêu chưa đạt nhằm đảm bảo thực hiện đúng tiến độ của Phương án/Kế hoạch đã được duyệt. Chỉ đạo điều chỉnh Phương án/Kế hoạch cho phù hợp với thực tiễn trong trường hợp cần thiết.


NHNN chi nhánh có TCTD đặt trụ sở chính trên địa bàn có biện pháp chủ động phối hợp chặt chẽ với NHNN chi nhánh nơi TCTD có các đơn vị mạng lưới để theo dõi, giám sát chặt chẽ việc thực hiện phương án cơ cấu lại và kế hoạch kiện toàn tổ chức và hoạt động các đơn vị mạng lưới đã được phê duyệt; chỉ đạo TCTD gửi nội dung cơ cấu lại có liên quan tới các đơn vị mạng lưới cho NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố liên quan để phối hợp chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc thực hiện. Kịp thời báo cáo NHNN (qua Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng) các khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị để đảm bảo TCTD thực hiện thành công phương án cơ cấu lại được phê duyệt.


Cùng với đó, rà soát, đánh giá việc thực hiện phương án thành lập ban đầu các chi nhánh NHTM trên địa bàn; bảo đảm các chi nhánh NHTM hoạt động theo đúng mục tiêu nêu tại phương án thành lập, phục vụ hiệu quả việc phát triển kinh tế địa phương.


Tăng cường quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các TCTD trên địa bàn; trong đó tập trung thanh tra các NHTM, chi nhánh NHTM, QTDND yếu kém, nợ xấu cao, kinh doanh kém hiệu quả và có dấu hiệu vi phạm pháp luật; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những tồn tại, yếu kém, vi phạm. NHNN chi nhánh nâng cao tính chủ động trong thực hiện vai trò quản lý tại địa bàn.


Đồng thời, chỉ đạo các TCTD rà soát, chấn chỉnh công tác điều hành, tổ chức bộ máy, nhân sự; kiên quyết xử lý những trường hợp cán bộ không đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, cán bộ có hành vi vi phạm pháp luật.


Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc quản lý, thanh tra, giám sát các TCTD trên địa bàn. Tích cực phối hợp với các cơ quan có liên quan (Tòa án nhân dân, Cục thi hành án, Sở Tư pháp…) trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về xử lý tài sản bảo đảm để đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu.


Mặt khác, tổ chức thường xuyên, có chất lượng việc phổ biến, tuyên truyền, quán triệt thực hiện chính sách, pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, cơ cấu lại và xử lý nợ xấu cho các TCTD trên địa bàn. Tiếp nhận, xử lý kịp thời những phản ánh kiến nghị của TCTD và nhân dân trên địa bàn, trường hợp vượt quá thẩm quyền, kịp thời báo cáo Thống đốc NHNN để xử lý.



VinaCapital và Daiwa PI Partners đầu tư 45 triệu USD vào Sữa Ba Vì

VinaCapital và Daiwa PI Partners đầu tư 45 triệu USD vào Sữa Ba Vì


Như vậy, VinaCapital và Daiwa PI Partners sẽ nắm giữ 70% cổ phần của sữa Ba Vì và trở thành cổ đông lớn nhất.


Sáng nay, Tập đoàn VinaCapital, Quỹ VinaCapital Vietnam Opportunity Fund (VOF) và Daiwa PI Partners chính thức ký kết Hợp tác đầu tư vào Công ty Cổ phần Sữa Quốc tế (Sữa Ba Vì).


Tổng giá trị đầu tư khoảng 45 triệu USD, tương đương 2 tổ chức này sẽ nắm giữ 70% cổ phần của Sữa Ba Vì và trở thành cổ đông lớn nhất của công ty này.


Công ty Cổ phần Sữa Quốc tế được thành lập năm 2004, gồm nhà máy chế biến các sản phẩm sữa là Nhà máy sữa Chương Mỹ (cách trung tâm thủ đô Hà Nội 25 Km về phía tây) và nhà máy Sữa Ba Vì (xã Tản Lĩnh, Huyện Ba Vì, Hà Nội).


Quỹ VinaCapital có tổng tài sản quản lý khoảng 1,5 tỷ USD, hiện đang quản lý 3 quỹ dạng đóng gồm VOF, VNL và VNI.


Về phía Daiwa PI Partners, đây là quỹ đầu tư của Nhật Bản, có vốn 12 tỷ Yên. Daiwa PI Partners quản lý các quỹ đầu tư tư nhân, đầu tư vào các khoản nợ xấu, năng lượng (private equity investments, non-performing loan investments, and Energy Investments).




Dự báo lạm phát 2015 thấp: 'Cơ hội tiếp tục hạ lãi suất'

Dự báo lạm phát 2015 thấp: 'Cơ hội tiếp tục hạ lãi suất'


Theo dự kiến sơ bộ thì lạm phát 2015 có thể ở mức 4%. Đây là thông tin được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra tại cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước và các bộ Tài chính, Công Thương ngày 17/12.



Con số 4% cũng đã có thể cao gần gấp đôi mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của năm nay, theo một số dự báo là chỉ tăng khoảng 2%.





Trong điều kiện lạm phát như trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan chủ trì xây dựng và điều hành mục tiêu tăng trưởng kinh tế - cho rằng cần xem xét đến việc điều hành một số mặt hàng do nhà nước quản lý giá. Cần cân nhắc thời điểm điều chỉnh,mức độ điều chỉnh các loại giá, như y tế, giáo dục, điện, xăng dầu… cho phù hợp để tránh tác động cộng hưởng trong cùng thời điểm đến nền kinh tế.




Trước khi cuộc họp 4 bộ diễn ra, như VnEconomy đã đưa tin, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã kiến nghị điều chỉnh giá bán điện bình quân trong năm 2014 (vào tháng 12/2014) lên 1.652,19 đồng/kWh, tăng 9,5% so với giá bán điện bình quân hiện hành (1.508,85 đồng/kWh).




Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, các chuyên gia sửa dụng bảng cân đối liên ngành (I/O) ước tính tác động mức tăng 9,5% của giá điện sẽ làm tăng giá thành sản xuất lên khoảng 0,55%, ảnh hưởng làm giảm tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình là 0,58% và làm giảm tốc độ tăng GDP là 0,45%.




Lạm phát 2015 có thể ở mức thấp, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư chính là cơ hội để tiếp tục hạ lãi suất cho vay.




Và theo tính toán sơ bộ, nếu lãi suất cho vay giảm 1% sẽ có tác động tổng hợp tới nền kinh tế, làm GDP năm 2015 tăng thêm khoảng 0,45% và lạm phát giảm khoảng 0,76%.




Theo quy chế phối hợp, Ngân hàng Nhà nước chủ trì xây dựng và điều hành mục tiêu lạm phát. Bộ Tài chính chủ trì xây dựng và thực hiện chính sách tài khóa, còn Bộ Công Thương chủ trì điều hành thương mại trong nước, xuất nhập khẩu và cán cân thương mại.




Như vậy, những vấn đề nêu trên cần có sự thảo luận thêm của 3 cơ quan này và chưa dễ có thể đi đến kết luận cuối cùng.




Tuy nhiên, cũng không phải đến tận khi 4 bộ họp để triển khai quy chế phối hợp, lạm phát, điều hành giá và lãi suất mới được đặt ra.




Giới chuyên gia và các cơ quan tham mưu cấp vụ, viện cũng đã từng mổ xẻ và nêu nhiều quan điểm trái chiều về các vấn nêu trên.




Tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu vào cuối tháng 9/2014, khi chuyên gia “ca thán” lãi suất ở Việt Nam cao nhất thế giới thì doanh nghiệp làm gì cũng “chết”, thì một Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước quả quyết lãi suất đang hợp lý.




Một cơ quan chuyên môn về kinh tế vĩ mô, ngay sát cuộc họp hôm qua cũng cho rằng mức lãi suất của Việt Nam hiện nay là cao, đang là một sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp. Nếu không sớm hạ nhanh lãi suất về ngang bằng các quốc gia khác thì nền kinh tế sẽ khó có sự tăng trưởng nhanh và ổn định trong trung và dài hạn.




Còn với lạm phát, các quan điểm cũng rất khác nhau về cả nguyên nhân và cao hơn là mối quan hệ với tăng trưởng.




Có một thực tế là trong những năm gần đây, Việt Nam luôn phải đối mặt với việc phải lựa chọn giữa tăng trưởng và kiềm chế lạm phát.




Khái quát của một viện nghiên cứu chỉ ra rằng, về mối tương quan này hiện đang có hai luồng ý kiến. Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng, lạm phát và tăng trưởng của Việt Nam có quan hệ tỷ lệ nghịch, khi lạm phát ở ngưỡng thấp, khoảng dưới 5% (2000 - 2003) thì tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định. Nhưng khi lạm phát ở ngưỡng cao, xấp xỉ hoặc ở mức hai con số (2007 – 2011) thì tăng trưởng có xu hướng chững lại và giảm xuống.




Luồng ý kiến thứ hai cho rằng, mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát là mối quan hệ đánh đổi, tức là muốn đạt mức tăng trưởng cao thì phải chấp nhận mức lạm phát cũng cao, còn muốn kiềm chế lạm phát ở mức thấp thì không thể đạt được mức tăng trưởng cao được.




Với cách tiếp cận khác, xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát từng năm trong cả chuỗi 20 năm qua, viện này cho rằng những năm mức tăng trưởng cao hơn lạm phát là những năm kinh tế - xã hội của đất nước tương đối ổn định, còn những năm tăng trưởng thấp hơn lạm phát là những năm nền kinh tế thường gặp các bất ổn vĩ mô.




Số liệu nhiều năm của nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia... cũng cho kết quả tương tự.




Từ phân tích đó, việc đã nên cho tăng giá được chưa và CPI năm 2015 có nên cho tăng khoảng 5% là câu hỏi cần thảo luận cụ thể, nhưng điều quan trọng hơn mà cơ quan nghiên cứu này nhấn mạnh là phải đảm bảo được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn mức lạm phát.



Thời điểm chín muồi giảm cho vay ngoại tệ

Thời điểm chín muồi giảm cho vay ngoại tệ


Chỉ còn chưa đầy nửa tháng nữa, nhiều đối tượng sẽ không còn được vay bằng ngoại tệ khi Thông tư số 29/2013/TT-NHNN về việc cho vay bằng ngoại tệ của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú chính thức có hiệu lực


Cụ thể, các NH chỉ cho vay ngắn hạn đối với DN đầu mối nhập khẩu xăng dầu được Bộ Công Thương giao hạn mức nhập khẩu xăng dầu năm 2014, có nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu xăng dầu khi khách hàng vay không có hoặc không có đủ nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất, kinh doanh để trả nợ vay được thực hiện đến hết ngày 31/12/2014. Nhóm đối tượng mà các NH không được cho vay ngoại tệ, sau ngày 31/12/2014 là DN vay ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu vốn ở trong nước thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới...


Lãnh đạo một NHTMCP lớn chia sẻ: Quy định trên có hiệu lực sẽ tác động đến việc cho vay ngoại tệ của các NH và có thể ảnh hưởng chung đến tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống từ năm sau và cũng giảm đi sự đa dạng trong cho vay của các NH.


Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực đưa ra ba lý do để minh chứng cho việc dừng cho vay ngoại tệ đối với một số đối tượng DN là không đáng lo ngại. Đó là hiện tỷ lệ cho vay ngoại tệ của các NH chỉ chiếm 13 – 14%/tổng dư nợ. Thứ hai, NHNN đưa ra thông điệp về hạn chế cho vay ngoại tệ từ 2-3 năm trở lại đây và cũng thực hiện hoãn đôi lần nên NH và DN đã có thời gian để chuẩn bị. Thứ ba, hiện tỷ giá đang diễn biến khá ổn định nên thời điểm này chấm dứt hoạt động cho vay ngoại tệ đối với một số đối tượng là hợp lý. “Việc giảm bớt cho vay ngoại tệ, một mặt giảm bớt sự lệ thuộc vào đồng USD, nâng vị thế đồng nội tệ, mặt khác vừa chống và giảm đô la hóa trong nền kinh tế”, TS. Lực nhấn mạnh.


Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) - ông Nguyễn Tiến Đông cho biết, con số thống kê tín dụng cho vay ngoại tệ cho thấy các NH cũng như DN đã chủ động giảm dần hoạt động vay và cho vay ngoại tệ. Nếu như thời điểm 6 tháng đầu năm 2014 tăng trưởng tín dụng ngoại tệ khoảng 10% thì đến thời điểm này, tín dụng ngoại tệ đang ở mức 12,8%. Nghĩa là trong suốt gần 6 tháng qua tín dụng ngoại tệ chỉ tăng được 2,8%. Điều này cho thấy nhu cầu vay vốn ngoại tệ của các DN, thành phần kinh tế không lớn như trước đây và có dấu hiệu giảm dần.


Nguyên nhân cầu tín dụng ngoại tệ không tăng trong mấy tháng trở lại đây được một DN chia sẻ: thường cầu tín dụng ngoại tệ DN chủ yếu là ngắn hạn theo chu kỳ kinh doanh, cũng như vòng quay thanh toán hàng xuất khẩu. Thực ra việc vay ngoại tệ của các DN dịp đầu năm được tính toán trên cơ sở lợi ích. Lãi suất cho vay ngoại tệ đã thấp hơn trong khi tỷ giá được Thống đốc NHNN khẳng định là biến động không quá 2% nên khi so với lãi suất VND thì DN thấy vay bằng ngoại tệ có lợi hơn thì vẫn vay. Vì vậy, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đầu năm cao, nhưng cuối năm thì không như vậy.


Qua theo dõi của NHNN những tháng cuối năm, có tháng tín dụng ngoại tệ tăng trưởng âm, có tháng hầu như không tăng trưởng. Trong khi lãi suất cho vay bằng VND liên tục giảm thì lãi suất cho vay đồng USD gần như không thay đổi. Hiện lãi suất cho vay ngoại tệ theo phản ánh các DN ở mức 4 – 5%/năm, trong khi lãi suất VND ở mức 6-7%/năm, thậm chí có thể thấp hơn nếu là DN có dự án tốt, có uy tín. Như vậy, chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền USD và VND giảm đáng kể nên DN cũng không mặn mà vay bằng USD.


Lãnh đạo một NHTMCP trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh cho biết, mấy tháng nay, NH này chủ động giảm cho vay ngoại tệ để đảm bảo cân đối trạng thái và nhu cầu thực tế vay ngoại tệ của DN không nhiều. Do vậy, theo ông Nguyễn Tiến Đông, trường hợp NHNN có hạn chế đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ thì cũng không ảnh hưởng đến nhập khẩu của các DN phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.


Việc NHNN không nhân nhượng thêm một lần nữa đối với các đối tượng vay ngoại tệ không phải không có cơ sở. Một chuyên gia phân tích cả lý do chủ quan lẫn khách quan: Thặng dư thương mại dự kiến cả năm đạt 2,3 tỷ USD; kiều hối chảy về Việt Nam trong năm 2014 khoảng 11 tỷ USD, chưa kể vốn FDI cho thấy nguồn cung ngoại tệ khá dồi dào. Trong khi đó, nhu cầu ngoại tệ vào thời điểm này chủ yếu phục vụ đơn vị xuất khẩu dùng để nhập khẩu. Mà các DN này có nguồn thu bằng ngoại tệ trả nợ NH thì không gây sức ép nhiều tới quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Chỉ có một phần các DN nhập khẩu chủ yếu bán trong nước thu bằng nội tệ phải mua ngoại tệ các NH để trả nợ ngoại tệ có tạo sức ép chút ít, song đối tượng này không đáng kể.


“Nhưng trong tổng thể cán cân như vậy, cung vẫn át cầu. Bên cạnh đó, lãi suất VND đang khá rẻ, tỷ giá ổn định thì không ai găm giữ đầu cơ ngoại tệ cả”, một chuyên gia NH nhận định.


Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực cũng lưu ý: Để tạo điều kiện cho DN kinh doanh, theo quy định một số trường hợp có nhu cầu ngoại tệ thực sự khi phải xin phép NHNN thì cơ quan quản lý nên xử lý nhanh chóng cho DN. Vì trong giao dịch thanh toán quốc tế, đến hạn phải thanh toán, chỉ cần chậm một ngày DN sẽ bị phạt và quan trọng hơn là ảnh hưởng đến uy tín của họ. Bên cạnh đó, các NH cũng như DN cần phải quan tâm nhiều hơn đến nghiệp vụ phái sinh, hoán đổi từ tiền VND sang USD và ngược lại…


Theo Thoibaonganhang




Việt Nam đang chi 30-70 USD khai thác mỗi thùng dầu

Việt Nam đang chi 30-70 USD khai thác mỗi thùng dầu


Ngày 17/12, một thông cáo được phát đi từ Ngân hàng Nhà nước cho biết phiên họp lần thứ nhất nhằm triển khai “Quy chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô” của cơ quan này với ba bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương đã được tổ chức.




Bản thông cáo nêu khá cụ thể về mục tiêu và nguyên tắc phối hợp giữa bốn cơ quan nói trên, song không đề cập nội dung được bàn thảo tại phiên họp đầu tiên này.




Tuy nhiên, một nguồn tin của VnEconomy cho biết, một số nội dung phối hợp điều hành vĩ mô trong quý 1/2015 đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu và đề nghị ba bộ còn lại thảo luận thêm.




Dự báo mới là giả định




Tác động của giá dầu đến khai thác dầu thô và tăng trưởng kinh tế là vấn đề quan trọng được đề cập trong phiên họp.




Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2014 Việt Nam khai thác được trên 15 triệu tấn dầu thô. Chi phí khai thác dầu thô ở Việt Nam dao động từ mức 30 đến 70 USD/thùng.




Câu hỏi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đặt ra là: mức giá dầu thô nêu trên ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng khai thác trong thời gian tới và cơ cấu lại các mỏ?




Việc cần bàn và cần làm, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, là rà soát ảnh hưởng của giá dầu hiện tại đến hiệu quả của các mỏ dầu khí đang khai thác, đề xuất các phương án giảm thiểu rủi ro, lựa chọn phương án hợp lý.




Với cơ cấu về tỷ trọng khai khoáng chiếm khoảng 11% GDP, trong đó dầu thô chiếm khoảng 70-80%, Bộ Kế hoạch và Đầu tư giả định nếu ngành khai thác dầu phải cắt giảm 30% sản lượng thì sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế, tăng trưởng GDP có thể suy giảm từ 0,8 điểm phần trăm đến 1,2%.




Còn theo mô hình dự báo, nếu giá xăng dầu trong nước giảm 10% thì chi phí sản xuất giảm 0,57%, CPI giảm 0,55%, kinh tế tăng thêm 0,91%.




Tuy nhiên, những dự báo trên đều là giả định, cần có sự phối hợp của các bộ ngành để xem xét thêm các yếu tố tác động xung quanh giá dầu lên tăng trưởng kinh tế, vẫn theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư.




Ngân sách có thể giảm nhiều




Với tỷ lệ khoảng 11-12% tổng thu ngân sách nhà nước từ dầu thô, giá dầu thô theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là có ảnh hưởng lớn đến ngân sách cả về xuất khẩu và nhập khẩu.




Năm 2015, dự toán thu ngân sách từ dầu thô là 93 nghìn tỷ đồng với giá dự toán dầu thô là 100 USD/thùng.




Nêu tính toán sơ bộ: nếu giá dầu giảm 1 USD/thùng, ngân sách sẽ hụt thu khoảng 1.000 - 1.200 tỷ đồng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính toán, nếu giá dầu giảm từ trên 100 USD/thùng đầu năm 2014 xuống còn khoảng bình quân 70 USD/thùng trong năm 2015, thì ngân sách hụt thu khoảng 30.000 tỷ đồng.




Dĩ nhiên, nếu giá dầu giảm xuống bình quân 60 USD/thùng thì ngân sách sẽ giảm nhiều hơn nữa.




Trong vai trò chủ trì phối hợp liên ngành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị các bộ phối hợp tính toán tác động của giá dầu thô đến nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, và có phương án để bù đắp lại các khoản thiếu hụt nêu trên.




Quan điểm của Bộ là ngoài việc tăng thuế nhập khẩu xăng dầu, cần tính toán điều phối lợi nhuận của các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh xăng dầu…


Bên cạnh giá dầu và tác động của nó, phiên họp còn đề cập một số nội dung quan trọng khác trong điều hành kinh tế vĩ mô, VnEconomy sẽ phản ánh ở bài viết sau.



Khối ngoại sắp kết thúc đà bán ròng

Khối ngoại sắp kết thúc đà bán ròng


Thị trường liên tục giảm điểm mạnh, đợt giảm lần này không giống như hồi tháng 5 khi xảy ra sự kiện biển Đông. Nếu như tháng 5, các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng mạnh và là động lực quan trọng để nâng đỡ thị trường, thì đợt giảm điểm lần này họ lại đứng ngoài và việc bán ròng của khối ngoại đã góp phần làm tâm lý thị trường trở lên bi quan.


Đợt bán ròng dài từ tháng 7 đến nay có phần xuất phát từ việc mua ròng ở mức giá thấp trong quý II. Nói cách khác, sau khi mua ròng trong quý II, các nhà đầu tư nước ngoài đã chốt lời.


Có ý kiến cho rằng, việc khối ngoại bán ròng tại thị trường Việt Nam là do xu hướng chung của dòng vốn rút ra khỏi thị trường châu Á khi Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định cắt giảm gói QE3. Một số quỹ đầu tư vào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi xu hướng này. Các đây 3 tháng, khi 2 quỹ hoán đổi danh mục (ETF) nước ngoài là FTSE Vietnam UCITS ETF và Market Vectors Vietnam ETF tiến hành đổi rổ, tổng giá trị tài sản quản lý bởi 2 quỹ này lúc đó lần lượt là 409,3 triệu USD và 632,7 triệu USD. Đến nay, các con số này đã giảm xuống còn 402,8 triệu USD và 503,5 triệu USD.


Ngoài ra, có thông tin rằng một số quỹ nước ngoài lớn dạng đóng đầu tư vào Việt Nam đang tính chuyện chuyển đổi mô hình sang quỹ mở và việc này đòi hỏi họ phải có một số thay đổi nhất định đối với danh mục đang nắm giữ. Cũng có một số quỹ không chuyển đổi mô hình, nhưng do tiên đoán giá dầu sẽ rớt mạnh, nên cũng đã tiến hành bán ra các cổ phiếu ngành năng lượng.


Cố gắng lý giải vì sao khối ngoại bán ròng liên tiếp nhiều tháng, có người cho rằng, các đợt chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) của các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra dồn dập đã làm phân tán sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường cổ phiếu niêm yết.


Tiền đồng mất giá cũng được cho có ảnh hưởng nhất định đến tâm lý của khối ngoại, vì điều đó cũng có nghĩa một phần lợi nhuận tạo ra tại Việt Nam sẽ bị trôi theo tỷ giá. Tháng 6/2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều chỉnh tỷ giá USD/VND tăng 1%, tức tiền đồng mất giá 1% so với USD. Đây là lần điều chỉnh tỷ giá duy nhất kể từ đầu năm đến nay. Tuy nhiên, tỷ giá bắt đầu tăng mạnh từ ngày 12/11 trước các tin đồn về việc NHNN sẽ tiến hành điều chỉnh lần thứ hai.


Theo nhận định của khối công ty quản lý quỹ, quy định mới về cho vay chứng khoán là nguyên nhân chính khiến tâm lý thị trường chung xấu đi. Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng được NHNN ban hành gần đây và có hiệu lực kể từ tháng 2/2015 sẽ hạn chế các CTCK trong việc cấp vốn cho các nhà đầu tư để mua cổ phiếu.


Mặc dù vậy, xu hướng bán ròng đã suy yếu đáng kể từ tháng 10. Dự báo xu hướng này sẽ sớm kết thúc cùng với sự kết thúc chu kỳ vốn chảy ra khỏi thị trường châu Á. Bên cạnh đó, mặt bằng giá đã trở về mức hấp dẫn sau nhiều phiên giảm mạnh. Các quỹ cũng thực hiện xong việc tái cơ cấu danh mục. Hết tháng 12, lịch IPO cũng thưa hơn. Quan trọng hơn, hầu hết các chỉ tiêu vĩ mô đều cải thiện và triển vọng kinh tế năm 2015 ngày càng sáng sủa… Các nhà đầu tư nước ngoài được kỳ vọng sẽ quay trở lại thị trường khi họ bước vào một năm làm việc mới.


Thực tế, một số quỹ vẫn đón nhận được dòng vốn mới và tiếp tục đầu tư vào Việt Nam. Công ty Quản lý quỹ Asia Frontier Capital (AFC) cho biết, tháng 11 là tháng mà cả 2 quỹ AFC Asia Frontier Fund and AFC Vietnam Fund ghi nhận mức kỷ lục dòng tiền chảy vào hàng tháng và tính đến nay thì tổng giá trị tài sản của 2 quỹ đã lên đến khoảng 25 triệu USD.


Ông Andreas Vogelsanger, Tổng giám đốc AFC Vietnam Fund kỳ vọng xu hướng này sẽ còn tiếp tục, vì ngày càng có nhiều người bắt đầu nhận biết cơ hội đầu tư hấp dẫn ở các thị trường cận biên, đặc biệt là Việt Nam. Trong 5 tháng qua, cả 2 quỹ này không những không bán ròng, mà còn tiếp tục tăng đầu tư vào Việt Nam.


Mặc dù thị trường giảm điểm, nhưng AFC Asia Frontier Fund và AFC Vietnam Fund vẫn tăng trưởng lần lượt 24% và 31,7% tính từ đầu năm đến nay. Hai quỹ này còn tương đối mới và nhỏ tại thị trường Việt Nam, như AFC Asia Frontier Fund thành lập từ tháng 3/2012, còn AFC Vietnam Fund tháng 12/2013. Nếu tính từ khi thành lập thì mức tăng trưởng lần lượt là 40,7% và 34,8%.


Quan sát giao dịch của khối ngoại, có thể thấy, diễn biến theo hình sin khá rõ nét. Theo đó, khi chu kỳ bán ròng kết thúc cũng là lúc mở ra một chu kỳ đầu tư mới của khối này.


Theo Tinnhanhchungkhoan




Fed gỡ bỏ cam kết "giữ lãi suất thấp trong thời gian đáng kể"

Fed gỡ bỏ cam kết "giữ lãi suất thấp trong thời gian đáng kể"


Thay vào đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ duy trì quan điểm "kiên nhẫn" trong vấn đề nâng lãi suất, ít nhất đến tháng 4/2015.


Dựa trên những đánh giá hiện tại về nền kinh tế, hội đồng hoạch định chính sách của Ủy ban Thị trường mở Liên bang Mỹ (FOMC) khẳng định, sẽ duy trì quan điểm kiên nhẫn trong việc bình thường hóa chính sách tiền tệ. Trên thực tế, tuyên bố này được cho là phù hợp với cam kết "duy trì chính sách lãi suất thấp trong thời gian đáng kể" trước đây của Fed.


Phát biểu trong cuộc họp báo sau cuộc họp chính sách, Chủ tịch Fed Janet Yellen cho biết, kiên nhẫn đồng nghĩa với việc các nhà hoạch định chính sách Mỹ dường như sẽ không nâng lãi suất trong ít nhất vài cuộc họp tới. Tuy nhiên, bà Yellen cũng đánh tín hiệu rằng, quan điểm kiên nhẫn này có thể sớm bị gỡ bỏ ít nhất vào tháng 4/2015, miễn là nền kinh tế tiếp tục phát ra những tín hiệu khả quan và kỳ vọng lạm phát ổn định.


Theo đó, các nhà hoạch định chính sách Fed dự báo, tăng trưởng GDP Mỹ sẽ nằm trong khoảng 2,6% - 3% trong năm 2015.


Đề cập đến tình hình lạm phát, bà Yellen cho rằng, mặc dù giá năng lượng giảm mạnh nhưng Fed tự tin rằng, áp lực lạm phát cuối cùng cũng sẽ phục hồi và chạm ngưỡng mục tiêu 2% của ngân hàng trung ương. Tỷ lệ lạm phát dự báo sẽ tăng lên 1% - 1,6% trong năm tới.


Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách cũng rất tin tưởng vào đà cải thiện của thị trường lao động Mỹ với dự báo rằng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống còn khoảng 5,2% - 5,3% vào cuối năm 2015.


Tuyên bố của Fed lại không đề cập đến những biến động kinh tế toàn cầu gần đây, từ đà lao dốc của giá dầu cho đến khủng hoảng tiền tệ tại Nga. Theo bà Yellen, mối quan hệ giữa Mỹ và Nga quá "lỏng nẻo" nên khủng hoảng tại Nga không tác động quá lớn đến nền kinh tế lớn nhất thế giới.


Sau thông báo của FOMC, thị trường tài chính Mỹ đồng loạt tăng mạnh. S&P 500 tăng 1,5% vào lúc 14h56 tại New York và lợi suất trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ tăng 7 điểm cơ bản. USD cũng tăng giá so với nhiều đồng tiền mạnh khác.




Thị trường chứng khoán: Những 'cơn bão' trong năm 2014

Thị trường chứng khoán: Những 'cơn bão' trong năm 2014


Khép lại năm 2014, thị trường chứng khoán Việt Nam chứng kiến một năm với nhiều dấu ấn có tác động mạnh tới chỉ số chứng khoán gồm cả thăng hoa và hoảng loạn.


Diễn biến TTCK trong năm 2013 và 2014


Nếu như trong năm 2013 đỉnh của chỉ số VN-Index chưa tới mức 550 điểm thì năm 2014 con số đó đã lên hơn 640 điểm, đồng thời thanh khoản cũng có sự khác biệt rõ rệt.


Những cơn "bão" lớn trong năm 2014 đã khiến thị trường trồi sụt mạnh nhưng vẫn không đánh gục được sự thăng hoa của VN-Index so với diễn biến hầu như đi ngang của năm 2013.


Tháng 5 đen tối


Từ đầu năm 2014, thị trường chứng khoán đang trên đà hồi phục nhờ sự ổn định của nền kinh tế, cũng như niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường đã tăng mạnh. Tuy nhiên “niềm vui ngắn chẳng tày gang” đầu tháng 5 với sự kiện biển Đông khi Trung Quốc đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, thông tin này được đề cập với tốc độ dày đặc trên các mặt báo, chỉ số chứng khoán VN-Index đã rơi tự do tới gần 33 điểm trong ngày 08/05, tức giảm mạnh nhất trong 13 năm qua với 5.87%.


Nhà đầu tư hoảng loạn tháo chạy, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải lên tiếng trấn an, nhiều ý kiến của các chuyên gia cũng cho rằng nhà đầu tư cần bình tĩnh để tránh bị lợi dụng bởi lúc này các quỹ đầu tư lớn và khối tự doanh công ty chứng khoán vẫn tích cực mua vào.


Đây có lẽ là lịch sử đen tối nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam khi bị tác động cực mạnh từ bên ngoài.


Lãnh đạo nhà băng rơi vào vòng lao lý - lịch sử không lặp lại


Nếu như tháng 8/2012 thị trường chứng khoán bị chấn động mạnh bởi thông tin bắt bầu Kiên thì gần như tròn 2 năm sau đó, thêm một ông chủ ngân hàng cũng rơi vào vòng lao lý nhưng thị trường vẫn giữ được “lửa”.


Thông tin ông Phạm Công Danh - Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Xây dựng Việt Nam (VNCB) - bị bắt được phát đi vào cuối ngày 29/07 khiến khá nhiều người e sợ kịch bản lặp lại vào phiên hôm sau. Tuy nhiên thị trường chứng khoán chỉ giảm 0.49%, tức 2.91 điểm vào phiên 30/07 và hầu như tâm lý nhà đầu tư không bị lấn át bởi thông tin tiêu cực này.


2014 cũng là năm vụ bầu Kiên và những cựu lãnh đạo ngân hàng Á Châu (ACB) được đưa ra xét xử và sau phiên phúc thẩm kéo dài 10 ngày vào đầu tháng 12 thì Nguyễn Đức Kiên bị đề nghị y án 30 năm tù như phiên sơ thẩm hồi tháng 5.


Nhiều chiêu thức phát hành thêm


So với năm 2013, thị trường chứng khoán đã có những bước chuyển biến rõ rệt về cả chỉ số và thanh khoản theo chiều hướng đi lên. Tuy nhiên, từ đây cũng rộ thêm nhiều chiêu thức huy động vốn từ các doanh nghiệp như làm đẹp báo cáo tài chính với kết quả kinh doanh đột biến, tạo hiện tượng cổ đông nội bộ đồng loạt gom cổ phiếu, lãnh đạo đăng đàn “tung” ra những kế hoạch hay dự án đẹp như mơ... để “thổi” giá và thanh khoản cổ phiếu trên sàn cho cho mục đích “gom tiền”.


Bên cạnh đó, cũng có một trào lưu phát hành thêm cổ phiếu nhằm mục đích để cấn trừ nợ bởi trong một thời gian dài bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng phần vì thiếu vốn, phần vì nợ đang chất cao như núi điển hình như KBC, ITA, SHN, HQC, QCG, HT1…


Ồ ạt IPO


Theo đề án của Chính phủ, trong hai năm 2014-2015 sẽ tiến hành cổ phần hóa (IPO) 432 doanh nghiệp bởi thế mà năm 2014 ghi nhận một làn sóng IPO hàng loạt. Theo số liệu từ Bộ Tài chính, trong 10 tháng đầu năm đã cổ phần hóa được 75 doanh nghiệp.


Trong đó, thị trường đặc biệt quan tâm tới những “ông lớn” đầu ngành như Vietnam Airlines, Vinatex, Đạm Cà Mau, Mobifone… và dự kiến năm 2015 thị trường chứng khoán sẽ có thêm nhiều hàng “khủng” hơn.


Bên cạnh đó, làn sóng đấu giá cổ phần cũng được các doanh nghiệp thực hiện đồng loạt theo đề án thoái vốn ngoài ngành. Tại một nhóm doanh nghiệp tiềm năng và đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp đã xuất hiện những “ông lớn” thâu tóm từ đây.


Đối lập bứt phá và lụi tàn


2014 cũng là năm ghi nhận nhiều cổ phiếu có những biến động khác lạ sau kỳ kinh tế suy thoái kéo dài. Trong đó có những doanh nghiệp trường vốn đã tận dụng được thời cơ để thâu tóm doanh nghiệp yếu sức hơn nhưng có triển vọng phát triển. Chính điều này đã khiến giá cổ phiếu tăng đột biến như SRC, VHG, CMX, VCS, APC…


Ngược lại, cũng có những doanh nghiệp hoạt động ngày càng bết bát hơn và nguy cơ sắp rơi vào thảm cảnh bị hủy niêm yết như PVL, PXT, PVR, PTL…


Bên cạnh đó cũng không thể bỏ qua hiện tượng bứt phá của nhóm cổ phiếu vừa niêm yết hay thuộc diện thoái vốn của SCIC như GTN, QBS, MWG hay DQC…


Thông tư 36 và thị trường chứng khoán


Gần về cuối năm, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 36 quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Trong đó, quy định về tín dụng cho vay đầu tư cổ phiếu không được vượt quá 5% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (trước đó là 20% tính cả trái phiếu). Ngoài ra, tổ chức tín dụng chỉ được cho vay đầu tư chứng khoán khi đáp ứng được đầy đủ các tỷ lệ an toàn hoạt động và có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%.


Mặc dù những con số trên không có ý nghĩa siết chặt, mang tính định hướng nhưng ngay sau khi Thông tư 36 xuất hiện, thị trường chứng khoán đã chao đảo với những dấu hiệu kém tích cực.


Giá dầu và sức ép lên cổ phiếu dầu khí


Giá dầu thế giới lao dốc trong một thời gian dài khiến thị trường chứng khoán thế giới bị ảnh hưởng và Việt Nam cũng không ngoại lệ.


Trong một nhận định trên trang CNBC, thời gian tới triển vọng kinh tế Việt Nam tới khá tươi sáng sẽ là động lực cho thị trường chứng khoán tăng trưởng. Tuy nhiên, yếu tố là giá dầu giảm có thể tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam, trong đó, nhóm cổ phiếu họ dầu khí sẽ bị ảnh hưởng lớn nhất.


Sau sự kiện biển Đông, đây là một yếu tố tác động mạnh lên thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm nay. Có thể nói, xu hướng tăng thị trường chứng khoán năm 2014 được dẫn dắt bởi cổ phiếu dầu khí thì cũng “kết thúc” bởi chính nhóm cổ phiếu này. VN-Index bắt đầu lao dốc từ mức đỉnh trong năm tại 645 điểm khi giá dầu thế giới phát tín hiệu sụt giảm. Nhóm cổ phiếu dầu khí trong nước như PVD, GAS hay PVS đã xuống mức thấp nhất trong 1 năm do ảnh hưởng bởi thông tin này. Hiện thị trường chứng khoán vẫn chưa có dấu hiện kết thúc xu hướng giảm trong những ngày cận kề kết thúc năm 2014.


Theo Vietstock




Trò chơi giá dầu '1 tên trúng 2 đích' của Saudi Arabia

Trò chơi giá dầu '1 tên trúng 2 đích' của Saudi Arabia


Tháng 8/1973, Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat có một chuyến thăm bí mật tới Riyadh, thủ đô Saudi Arabia, để gặp nhà vua Faisal. Khi đó, Sadat đang chuẩn bị cho cuộc chiến tranh giữa thế giới Arab với Israel, và ông muốn Saudi Arabia dùng tới thứ “vũ khí” mạnh nhất của nước này: dầu lửa.


Cho tới thời điểm đó, vua Faisal vẫn lưỡng lự trong vấn đề các nước Arab thuộc Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC) sử dụng dầu lửa như một loại “vũ khí”.


Tuy vậy, đến tháng 10/1973 khi cuộc chiến giữa phe Arab và Israel nổ ra, các nước Arab xuất khẩu dầu lửa đã tăng giá dầu, giảm sản lượng và tung lệnh cấm vận dầu lửa để trừng phạt nước Mỹ vì Washington hậu thuẫn Israel trong cuộc chiến tranh này. Nếu không có Saudi Arabia, lệnh cấm vận dầu lửa năm 1973 sẽ không diễn ra.


Theo một bài bình luận của hãng tin Reuters, ngày nay, Saudi Arabia lại một lần nữa đang dùng tới “vũ khí dầu lửa”.


Nhưng thay vì đẩy giá lên và cắt giảm nguồn cung, nước này làm điều ngược lại. Trong bối cảnh giá dầu thô toàn cầu liên tục giảm từ tháng Sáu tới nay, Saudi Arabia cương quyết không giảm sản lượng và dùng ảnh hưởng của mình để khiến OPEC ra quyết định giữ nguyên sản lượng trong cuộc họp gần đây nhất của khối này hôm 27/11.


Những hệ quả từ chính sách của Saudi Arabia đã rõ. Sau hai năm ổn định ở ngưỡng 105-110 USD/thùng, giá dầu thô Brent tại thị trường London đã “giảm một lèo” từ 115 USD/thùng vào tháng 6 xuống dưới ngưỡng 60 USD/thùng vào phiên giao dịch ngày 16/12.


“Đâu là lý do khiến Mỹ và một số đồng minh của Mỹ muốn đẩy giá dầu xuống?”, Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro từng đặt câu hỏi hồi tháng 10. Sau đó, ông Maduro tự đưa ra câu trả lời của mình: “Để gây thiệt hại cho nước Nga”.


Reuters cho rằng, điều này đúng một phần, nhưng thực ra, “trò chơi giá dầu” của người Saudi Arabia phức tạp hơn nhiều.




Nước này có hai mục tiêu trong “cuộc chiến giá dầu” hiện nay: một là hất cẳng các nhà khai thác dầu đá phiến của Mỹ ra khỏi thị trường. Và quan trọng hơn, Saudi Arabia muốn trừng phạt hai đối thủ chính là Nga và Iran vì hai nước này ủng hộ Tổng thống Bashar al-Assad trong cuộc chiến dân sự ở Syria.


Dầu đá phiến đòi hỏi chi phí sản xuất cao hơn bình thường, nên giá dầu giảm sâu sẽ khiến các nhà khai thác dầu đá phiến không còn lợi nhuận.


Còn ở Syria, kể từ khi cuộc nổi dậy bắt đầu vào năm 2011, các cường quốc khu vực và thế giới đã có những cuộc đối đầu nảy lửa. Trong khi Saudi Arabia và Qatar cung cấp vũ khí cho nhiều phần tử nổi dậy ở Syria, thì Iran và Nga lại cung cấp vũ khí và tài chính để chính quyền Tổng thống Assad tồn tại.


Từ khi Mỹ đưa quân vào Iraq năm 2003, các trung tâm quyền lực truyền thống trong thế giới Arab, gồm Ai Cập, Saudi Arabia, và các nước vùng Vịnh khác, đã trở nên lo ngại về ảnh hưởng ngày càng lớn của Iran: tham vọng hạt nhân của Tehran, ảnh hưởng của Tehran đối với Chính phủ Iraq, việc Tehran ủng hộ các nhóm vũ trang Hezbollah và Hamas, cũng như liên minh giữa Iran với Syria.


Cuộc xung đột ở Syria về bản chất đã trở thành một cuộc chiến ủy nhiệm (proxy war) lan rộng khắp khu vực giữa Iran và Saudi Arabia. Cả hai bên đều cho rằng, đây là một cuộc xung đột mà kẻ thắng sẽ có tất cả: nếu quân Hezbollah người Shi’ite chiếm ưu thế ở Lebanon, thì người Hồi giáo Sunni thân Saudi Arabia ở Lebanon sẽ thất thế trước Iran. Nếu một chính phủ do người Shi’ite đứng đầu tăng cường quyền kiểm soát ở Iraq, Iran sẽ giành chiến thắng thêm một lần nữa.


Vì lý do này, Saudi Arabia đang ra sức tăng cường sức mạnh cho đồng minh ở Bahrain, Yemen, và Syria, cũng như bất kỳ ở nơi nào khác mà Riyadh lo ngại ảnh hưởng của Iran sẽ lan tới. Và Saudi Arabia đang tấn công Iran và cả Nga bằng thứ “vũ khí” hiệu quả nhất của mình - dầu lửa.


Cả Nga và Iran đều có sự phụ thuộc cao vào giá dầu. Theo một số ước tính, Nga cần giá dầu ở mức khoảng 100 USD/thùng để cân bằng ngân sách. Còn Iran, dưới sức ép của các lệnh trừng phạt từ phương Tây và sự cô lập kinh tế, thậm chí cần mức giá cao hơn.


Đến hiện tại, nền kinh tế Iran đã lĩnh đòn từ hành động của Saudi Arabia. Vào hôm 30/11, đồng Rial của Iran mất giá gần 6% chỉ trong một ngày sau khi OPEC quyết định không tăng sản lượng.


Saudi Arabia tin rằng mình có thể tự vệ trước ảnh hưởng của giá dầu giảm. Ngoài việc sản xuất nhiều dầu hơn để bù đắp cho thất thoát doanh thu vì giá giảm, nước này còn có một “lá chắn” là dự trữ ngoại hối 750 tỷ USD.


Tuy vậy, chính sách của Saudi Arabia vẫn là một “trò chơi” nguy hiểm. Vẫn chưa có tín hiệu nào cho thấy Nga và Iran sẽ thay đổi lập trường dưới sức ép kinh tế. Tệ hơn, chính sách của Riyadh có thể sẽ “phản đòi”, khiến Nga và nhất là Iran càng trở nên quyết tâm hơn trong việc chống lại ảnh hưởng của Saudi Arabia ở Trung Đông.




Tóm lại, đối đầu với Nga và Iran trong vấn đề Syria và Iraq, Saudi Arabia đang tiến hành một “cuộc chiến giá dầu” với hai đối thủ này. Trong ngắn hạn, Saudi Arabia có thể thắng.


Nhưng cũng giống như bất kỳ một cuộc xung đột bè phái nào, hành động của nước này đe dọa dẫn tới những hậu quả vượt ra khỏi tầm kiểm soát của tất cả các bên - Reuters kết luận.



Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

Tự doanh CTCK đang tích cực 'gom' hàng

Tự doanh CTCK đang tích cực 'gom' hàng


Giao dịch khối tự doanh CTCK thường có xu hướng đi ngược lại với diễn biến của VN-Index. Từ đầu tháng 12 đến nay, trước diễn biến TTCK giảm điểm mạnh, khối này mua vào khá tích cực.


Trong tháng 12, tác động của Thông tư 36/2014 của Ngân hàng Nhà nước cùng với việc giá dầu thô rơi mạnh xuống mức thấp nhất trong hơn 5 năm qua, khiến thị trường liên tiếp chứng kiến những phiên giảm điểm mạnh với thanh khoản yếu. Tận dụng cơ hội này, khối tự doanh CTCK đã gom hàng khá tích cực. Từ ngày 1-15/12, tự doanh CTCK đã mua ròng 7 phiên và bán ròng 4 phiên. Tổng cộng, khối này mua ròng 125,2 tỷ đồng, gấp 11,7 lần so với tháng 11 và gần bằng một nửa so với tháng 10.


Trong đó, khối tự doanh đã có những phiên giao dịch với giá trị mua-bán ròng lên đến hàng trăm tỷ đồng. Cụ thể, trong phiên 10/12, khối này đã bán ròng 258,48 tỷ đồng, đây là phiên bán ròng kỷ lục nhất và phiên 8/12 mua ròng 258,59 tỷ đồng. Tuy nhiên, với thống kê mức giá bình quân mua - bán cao, trong khi khối lượng giao dịch thấp cho thấy, nhiều khả năng, khối này đã giao dịch trái phiếu. Đây cũng là tình trạng chung ở một số phiên giao dịch đột biến của khối tự doanh.


Nhìn lại “con sóng biển Đông” hồi tháng 5 và tháng 6, trong phiên giao dịch ngày 8/5, khi các nhà đầu tư cá nhân hoảng loạn bán tháo trên diện rộng, khiến các cổ phiếu đua nhau giảm sàn, VN-Index mất 32,88 điểm thì khối tự doanh CTCK lại tranh thủ gom hàng với giá trị rót ròng đạt hơn 221,92 tỷ đồng. 10 phiên giao dịch tiếp sau đó, khi chỉ số VN-Index tăng 3,4%, khối tự doanh đã liên tiếp bán ròng với tổng giá trị đạt hơn 283 tỷ đồng. Trong đó, phiên 26/5, khi VN-Index tăng 2,57 điểm, khối này đã bán ròng hơn 205 tỷ đồng.


Tuy nhiên, trên thực tế, động thái giao dịch của khối tự doanh CTCK thường không công khai rõ các mã, mà chỉ được tổng kết chung về khối lượng và giá trị trên sàn HOSE, đồng thời, tỷ trọng giao dịch thường thấp, nên giao dịch của khối này không mấy tác động đến tâm lý NĐT, diễn biến các chỉ số chứng khoán như giao dịch của khối ngoại.


Theo Tinnhanhchungkhoan




HSC: Ít có khả năng tăng giá điện thêm 9,5% trong tháng 12

HSC: Ít có khả năng tăng giá điện thêm 9,5% trong tháng 12


Theo nhận định của Công ty Chứng khoán TPHCM (HSC), ít có khả năng giá điện sẽ tăng trong tháng 12 vì giá dầu đã giảm mạnh.


Gần đây EVN đã một lần nữa xin Bộ Công thương điều chỉnh giá điện, theo đó giá điện bình quân có thể tăng tới 9,5%; tương đương 143,24 đ/KwH lên 1.652,19 đ/KwH từ mức hiện nay là 1.508,85 đ/KwH. Tuy nhiên đề xuất xin tăng giá điện không nêu giá điện thực tế bán cho các hộ gia đình.


HSC cho rằng động thái này xuất phát từ giá đầu vào chính sản xuất điện tăng, theo đó giá thành bình quân của EVN đã tăng lên khoảng 1.502 đ/KwH, nghĩa là đơn vị này lỗ 11đ/KwH trong năm 2014.


HSC cho rằng ít có khả năng giá điện sẽ tăng trong tháng 12 vì giá dầu đã giảm mạnh. Ngoài ra EVN cũng đã xin tăng giá điện nhiều lần mà không được chấp thuận, thậm chí cả khi giá dầu chưa giảm mạnh. Và việc xin tăng giá điện 9,5% là khó thuyết phục vì giá thành sản xuất điện đã và đang liên tục giảm kể từ mùa hè. Về ngắn hạn đề xuất tăng 5% trở xuống có lẽ sẽ dễ được chấp thuận hơn.


Tuy vậy HSC lại cho rằng đề xuất xin tăng 9,5% giá điện của EVN có thể có nhiều cơ hội được chấp thuận hơn vào tháng 3 hoặc tháng 4 năm sau, là thời điểm Vinacomin dự tính tăng giá than bán cho các đơn vị sản xuất điện thêm khoản 10-12%. Theo đó EVN chắc chắn sẽ xin tăng giá điện.


Tuy nhiên trong trường hợp đề xuất xin tăng giá điện lần này được chấp thuận thì giá mới sẽ thấp hơn khoảng 11,06% so với trần khung giá điện bình quân là 1.835 đ/KwH giai đoạn 2013-2015, được quy định trong Quyết định 2165/ QĐ-TTg, ban hành ngày 11/11/2013. Nghĩa là vẫn còn dư địa để giá điện tăng thêm khoảng 10% vào năm 2015.




Nhà băng ngoại vẫn kêu khó chống rửa tiền

Nhà băng ngoại vẫn kêu khó chống rửa tiền


Việc thu thập thông tin quá chi tiết, cụ thể về khách hàng… đang khiến các nhà băng ngoại gặp trở ngại trong quá trình thực hiện những quy định mới về phòng chống rửa tiền (PCRT).


Một loạt những khó khăn trong triển khai hoạt động phòng chống rửa tiền (PCRT) được đại diện các nhà băng ngoại đưa ra tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) cuối kỳ 2014 diễn ra mới đây.


Đại diện cho nhóm công tác ngân hàng, ông Dennis Hussey, Trưởng nhóm Công tác ngân hàng nêu những bất cập trong thực tế thực hiện PCRT mà các ngân hàng nước ngoài đang “vướng” khi triển khai. Đánh giá cao sự ra đời của Thông tư 31/2014/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư 35/2014/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về PCRT đã được ban hành ngày 11/11/2014.


Theo đó, rất nhiều đề xuất của nhóm đã được xem xét tiếp thu. Tuy nhiên, vẫn còn một vài điểm trong Thông tư 31 mới sửa đổi, bổ sung Thông tư 35 và Nghị định 116 trên thực tế sẽ rất khó hoặc không thể triển khai.


Đơn cử, thu thập thông tin về cá nhân nắm giữ từ 10% vốn điều lệ trở lên trong pháp nhân và cá nhân nắm giữ từ 20% vốn điều lệ trở lên trong tổ chức góp vốn trên 10% vào pháp nhân. Quy trình thực hiện ra sao hiện vẫn chưa được quy định rõ trong Thông tư 31 khiến các ngân hàng ngoại khá lúng túng và gặp khó khăn trong thực hiện.


Về thu thập thông tin địa chỉ, người đại diện của công ty mẹ, công ty con, văn phòng đại diện của khách hàng nước ngoài, và thông tin về cá nhân, tổ chức thụ hưởng (số CMT, hộ chiếu, mã số thuế…). Đại diện nhóm công tác ngân hàng sẽ rất khó để có được các thông tin trên về khách hàng nước ngoài/không cư trú.


Đối với quy định “gặp mặt khách hàng khi thiết lập quan hệ lần đầu”, ông Dennis cho rằng, đây là một yêu cầu được các nhà băng ngoại cho rằng không thực tế, nếu khách hàng là người không cư trú, hoặc sẽ không cần thiết nếu ngân hàng cung cấp một số nghiệp vụ cho số lượng lớn khách hàng như nghiệp vụ thanh toán lương.



“Vì PCRT là một nội dung ưu tiên toàn cầu, nhóm công tác mong rằng các ngân hàng nước ngoài sẽ không phải tiếp tục xin ý kiến không qua văn bản với NHNN về vấn đề này. Hy vọng, NHNN sớm ban hành những quy định hướng dẫn cụ thể, chi tiết và sát thực tế để các ngân hàng dễ dàng triển khai hơn trong thực tế”- Trưởng nhóm công tác ngân hàng Dennis Hussey bày tỏ.


Chia sẻ với báo chí, đại diện NHNN cho rằng, những quy định trong Thông tư 31 về khai báo thông tin chi tiết cá nhân của khách hàng giao dịch đã được gỡ bỏ khá nhiều so với Thông tư 35 trước đây.


Theo ông, khi khách hàng dù là vãng lai, hay không cư trú thì khi thực hiện bất kỳ giao dịch lớn nào tại ngân hàng cũng sẽ phải xuất trình CMT hoặc hộ chiếu còn thời hạn. Và trong những loại giấy tờ này đã bao gồm hết tất cả những thông tin cơ bản nhất về khách hàng, như tên tuổi, địa chỉ, quốc tịch….


“Những nội dung khai báo thông tin cá nhân sửa đổi trong Thông tư 31 mới đây chỉ là những quy định “sơ khai”, tối thiểu nhất về khách hàng. Trong những trường hợp này cũng không cần thiết phải thu thập chức vụ, thu nhập của khách hàng ra sao. Nhưng nếu trong quá trình thực hiện giao dịch nếu ngân hàng nghi ngờ giao dịch của khách hàng là có dấu hiệu rửa tiền, thì một mặt giao dịch vẫn được thực hiện, mặt khác ngân hàng sẽ báo cáo về cơ quan PCRT”- vị này giải thích.


Theo Infonet




Thống đốc: 'Giữ ổn định tỷ giá, tôi nói là làm!'

Thống đốc: 'Giữ ổn định tỷ giá, tôi nói là làm!'


Tại hội nghị sơ kết ngành 6 tháng đầu năm 2014, Thống đốc Nguyễn Văn Bình một lần nữa nói trước về việc điều hành: Ngân hàng Nhà nước sẽ nối lại hoạt động mua vào ngoại tệ từ tuần tới.




Một tuần sau đó, nhận thấy có tín hiệu nối lại, VnEconomy liên lạc để tìm hiểu thông tin. Thống đốc cho biết: "Hôm nay đã mua vào. Ngày mai sẽ mua nhiều hơn. Nhưng từ ngày kia sẽ khó mua".




Ông chỉ "bật mí" ngắn gọn vậy.




"Ngày kia" của Thống đốc




Bẵng đi, gần 6 tháng sau, đến khi tìm hiểu về đợt biến động tỷ giá cuối năm nay, lý do "ngày kia sẽ khó mua" mới được giải thích cụ thể.




Ông Bình gợi mở hơn khi trao đổi với VnEconomy rằng, Ngân hàng Nhà nước điều hành tỷ giá bằng nhiều công cụ, bởi tỷ giá có mối quan hệ rất mật thiết với lãi suất, với thanh khoản. Quan hệ cung - cầu ngoại tệ có thể đầy đủ, nhưng quan hệ với VND bị phá vỡ thì lập tức nó có thể ảnh hưởng đến tỷ giá, dù ngoại tệ thực tế không thiếu.




Bởi lẽ, khi các tổ chức tín dụng dư nhiều tiền đồng, với lãi suất quá thấp thì họ quay sang tạo sóng và lướt sóng trên thị trường ngoại tệ. Từ "lướt sóng" là thực tế mà người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước nhìn nhận, ngay cả với các doanh nghiệp khác.




Ngân hàng Nhà nước có đầy đủ số liệu, nắm chắc tình hình về cung - cầu ngoại tệ trên thị trường, để điều hành linh hoạt; tức là luôn phải làm sao để giữ tỷ giá, lãi suất, thanh khoản hệ thống ở mức cân bằng với nhau. Việc điều hành thường định hướng cho cả tháng, cả quý, nhưng thực tế phải sống với thị trường hàng ngày.




"Hôm đó tôi nói là khó mua, vì nó rơi vào đầu tháng. Thời điểm đó các ngân hàng thương mại tương đối là thừa tiền. Vì cuối tháng họ phải đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc theo quy định nên thường phải tích tiền vào. Hết cuối tháng thì lại thừa tiền, khi thừa thì tìm cách lướt sóng", Thống đốc chia sẻ một kinh nghiệm quan sát của mình.




Điều mà ông nhấn mạnh là phải nắm được hơi thở của thị trường, nắm được ứng xử của các ngân hàng và doanh nghiệp mới dự tính được "từ ngày kia sẽ khó mua", chứ không chỉ là lý thuyết hay dựa vào các công cụ điều hành.




Dù ở cấp cao nhất, song hàng ngày người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước vẫn phải nắm những chi tiết và tình huống cụ thể như vậy, nhất là với sự nhạy cảm của tỷ giá.




Nhân chi tiết trên, Thống đốc kể với VnEconomy: có người hỏi ông, vì sao trả lời Quốc hội, hay phát biểu ở đâu ông cũng nói luôn và ghi nhớ chi tiết đến từng con số ở mọi khía cạnh hoạt động của ngành. Theo ông, ứng xử với lãi suất, tỷ giá, thanh khoản…, nếu không nắm cơ sở các con số thì không làm gì được.




Áp lực tăng tỷ giá là có thực!




Cuối tháng 11 đầu tháng 12/2014, tỷ giá USD/VND biến động. Đầu tuần này, nó vẫn có hướng tăng lên. Ông Nguyễn Văn Bình nói thẳng: "Áp lực tăng tỷ giá cuối năm nay là có thực!".




Nhu cầu ngoại tệ có tăng lên. Thứ nhất, thời gian cuối năm, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài chuyển lợi nhuận về chính quốc, nhu cầu mua ngoại tệ ghi nhận là có tăng. Hai là, các nhà đầu tư gián tiếp cũng muốn chốt lời trong thời gian vừa qua, họ bán ròng và thu ngoại tệ để chuyển lợi nhuận.




"Đó là yếu tố có thực, tăng lên đột biến so với các yếu tố khác, Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn giám sát được", Thống đốc cho biết.




Ngoài ra, diễn biến tỷ giá hiện nay còn có một yếu tố khá riêng biệt.




Thông thường các năm, Tết âm lịch rơi vào tháng 1 dương lịch, nên trước đó các doanh nghiệp, theo quá trình kinh doanh với nước ngoài, thường kết thúc vào tháng 12 để chuẩn bị nghỉ Tết, nên các hợp đồng thanh toán thường diễn ra trong tháng 12, nguồn cung ngoại tệ dồi dào lên.




Riêng năm nay, Tết âm lịch lại rơi vào tháng 2 dương năm sau. Với thông lệ trên, nhiều doanh nghiệp chuyển thanh toán vào tháng 1, để nghỉ Tết vào tháng 2. Theo đó, yếu tố thời gian không khớp với nguồn cung ngoại tệ như các năm trước.




Ngoài ra, kiều hối cũng tăng mạnh vào dịp trước Tết âm lịch. Như vậy, kiều hối sẽ tăng mạnh vào tháng 1/2015 thay vì vào tháng 12/2014 như thông lệ hàng năm.




Như vậy, cầu ngoại tệ tăng lên trong khi cung ngoại tệ "không khớp nhịp" như trên, áp lực tăng tỷ giá là có thực, chứ không chỉ đơn thuần về tâm lý.




Bên cạnh đó còn có yếu tố tâm lý đầu cơ. Năm 2014, Ngân hàng Nhà nước định hướng nếu điều chỉnh tỷ giá sẽ không quá 2%. Từ đầu năm mới chỉ điều chỉnh 1%, nên giới kinh doanh và đầu cơ ngoại tệ có kỳ vọng điều chỉnh tiếp. Kỳ vọng này dẫn đến găm giữ và nâng tỷ giá.




Thực tế, cuối tháng 11 vừa qua, sau một thời gian dài mới có hiện tượng doanh nghiệp găm giữ và đàm phán với ngân hàng với giá bán cao hơn. Nút thắt này chỉ khơi thông trở lại khi Ngân hàng Nhà nước tuyên bố không có lý do gì điều chỉnh tỷ giá, cùng với việc bán ra can thiệp.




Và còn một nguyên do nữa. Suốt 11 tháng đầu năm, định hướng điều hành và thực tế tỷ giá được giữ ổn định, các ngân hàng thương mại đã chủ động bán ngoại tệ ra cho thị trường, mạnh dạn bán. Đến tháng 11, trạng thái ngoại tệ hệ thống ngân hàng đã âm tới 6%, tương đương với khoảng hơn 1 tỷ USD.




Với các yếu tố trên, dĩ nhiên các ngân hàng thương mại cũng nhận thấy áp lực tăng tỷ giá là có thực, họ hạn chế bán ra, bởi nếu trạng thái âm quá có thể lỗ nếu có điều chỉnh tỷ giá. Mặt khác, cuối năm họ phải đóng trạng thái âm ngoại tệ quá lớn để chuẩn bị quyết toán. Việc bán ra ngoại tệ theo đó cũng hạn chế.




"Làm không phải vì trót hứa"




Trước các nguyên nhân và biến động của tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước đứng trước hai lựa chọn: một là tiếp tục phá giá VND, hai là bán ra can thiệp.




Nhìn nhận những yếu tố trên tạo sức ép thực sự lên tỷ giá, nhưng nhà điều hành phân tích: cung - cầu dù có áp lực nhưng vẫn bình thường; xét tổng thể, cán cân thanh toán vẫn tiếp tục thặng dư và tính dồn từ đầu năm cỡ hơn 10 tỷ USD.




Mặt khác, họ xác định việc phá giá VND vào thời điểm cuối năm này không có lợi cho nền kinh tế (những năm trước cũng tránh điều chỉnh vào cuối năm). Thống đốc Nguyễn Văn Bình lý giải, vì đây là lúc các nhà xuất khẩu đã xuất khẩu rồi nên không tạo ra động lực hỗ trợ mang tính thời điểm, trong khi nếu phá giá thì nhà nhập khẩu phải chịu chi phí cao hơn do chốt sổ vào cuối năm.




Còn với trạng thái ngoại tệ hệ thống âm khoảng hơn 1 tỷ USD, nếu Ngân hàng Nhà nước bán ra hỗ trợ, các ngân hàng thương mại sẽ tin tưởng họ có thể đóng trạng thái bất cứ lúc nào. Khi có niềm tin, họ sẽ trở lại bán ra.




Với tính toán trên, trong đợt biến động vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã bán khoảng 1 tỷ USD, trạng thái ngoại tệ của hệ thống đã trở về mức rất thấp.




"Quan hệ cung - cầu không có gì, nhưng vì có các yếu tố tạo áp lực ở trên nên Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng bán ngoại tệ để can thiệp. Tôi bán ra để thể hiện, tôi nói là làm. Không phải vì trót hứa nên phải làm. Mà có nghĩa là, về tổng thể thì vẫn cân bằng, thậm chí còn dư ngoại tệ, thế nhưng cuộc sống đôi khi có những thời điểm có áp lực thì đó là lúc đòi hỏi thể hiện vai trò điều tiết của Ngân hàng Nhà nước", Thống đốc nói về quyết định can thiệp vừa qua, và cả về sự sẵn sàng hiện nay.




"Cái cân bằng là ổn định, thế nhưng nếu anh không giữ được cái ổn định đó thì nó sẽ bị yếu tố tâm lý chi phối".




Ông nhấn mạnh, các cân đối ngoại tệ hiện cân bằng, thậm chí thặng dư lớn, còn mất cân đối chỉ là tạm thời. Với vai trò là người điều tiết cuối cùng, khi có mất cân đối tạm thời, Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng cung ứng.




"Cũng như việc định hướng tỷ giá năm nay, nếu điều chỉnh sẽ không quá 2% là tính toán khách quan, trên cơ sở các cân đối và phù hợp với yêu cầu hỗ trợ phát triển nền kinh tế, chứ không phải hành chính, không phải vì mong muốn chủ quan mà gò thị trường theo nó".




"Năm nay, Ngân hàng Nhà nước không dùng hết định hướng 2% đó, không tiếp tục điều chỉnh. Không phải cứ thấy thị trường rục rịch là điều chỉnh ngay. Trên cơ sở phân tích các quan hệ cung - cầu nói trên, Ngân hàng Nhà nước kiên quyết không phá giá, mà bằng tuyên bố của mình, can thiệp giữ ổn định để tạo và giữ niềm tin trên thị trường", ông Bình khẳng định.



Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

Vietinbank đổi nợ lấy cổ phần, liệu có khôn ngoan?

Vietinbank đổi nợ lấy cổ phần, liệu có khôn ngoan?


Nhiều chuyên gia nhận định, đã đến lúc phải công nhận thiệt hại đó để “chôn” Vinalines của quá khứ và “phục sinh” bằng một Vinalines mới...


Cho rằng, chuyển nợ xấu thành vốn chủ sở hữu của một DN đang phá sản và không có khả năng phục hồi chỉ là cách xử lý nợ kỹ thuật. Giải pháp này lại được đưa ra trong bối cảnh ma trận sở hữu chéo (trong đó quan trọng nhất là sở hữu chéo doanh nghiệp nhà nước - ngân hàng) chưa có cách hóa giải. Như vậy có được xem là mâu thuẫn? Và đâu mới là giải pháp tối ưu với Vinalines?


Chúng tôi xin tiếp tục đăng tải bài viết thứ hai của TS. Nguyễn Trí Hiếu để làm rõ vấn đề này.


Cơ hội cho sở hữu chéo, lợi ích nhóm phát triển


Trước mắt, theo hướng thuận, đây vẫn là sở hữu một chiều, tức là Vietinbank đầu tư vốn và mua cổ phiếu của công ty con của Vinalines. Nó chỉ được coi là sở hữu chéo nếu công ty con đó quay trở lại mua cổ phiếu của Vietinbank hay dùng một công ty khác để mua cổ phiếu của Vietinbank thì đấy chính thực mới là sở hữu chéo.


Việc sở hữu của một ngân hàng với một doanh nghiệp nào đó thì chưa được xem là sở hữu chéo nếu thực hiện theo luật định và có những lý do chính đáng để làm chuyện đó. Công ty con không ảnh hưởng tới quản trị của ngân hàng qua một hình thức đầu tư nào đó, bằng cách này hay cách khác không thao túng được ngân hàng thì không được xem là sở hữu chéo.


Thực tế cho thấy nếu mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp được thắt chặt thì nó có lợi cho ngân hàng, vì nếu đi sâu vào quản trị của doanh nghiệp ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội để kiểm soát doanh nghiệp và bảo toàn đồng vốn đầu tư của mình.


Nhưng nếu sử dụng giải pháp này một cách phổ biến để xử lý nợ xấu thì e rằng chủ trương diệt sở hữu chéo sẽ gặp khó khăn vì khi cho phép ngân hàng có các chân rết đi vào sản xuất kinh doanh thì sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi cho sở hữu chéo và sự lạm dụng lợi ích nhóm phát triển. Điều này đồng nghĩa với việc những quyết định tiêu trừ sở hữu chéo sau này sẽ khó thành công.


Vậy, đứng từ góc độ Vietinbank giải pháp này có được xem là giải pháp tối ưu? Một lần nữa khẳng định, nếu dùng cách này để xử lý nợ xấu với điều kiện những công ty Vietinbank đầu tư có khả năng tài chính tốt, có tiềm năng phục hồi và được khoanh lại phát triển độc lập, không bị ảnh hưởng, tác động bởi những quyết định của công ty mẹ thì đó là giải pháp chấp nhận được.


Tuy nhiên, nếu đây chỉ là cách giải quyết hình thức, nghĩa là không còn cách nào trả nợ thì trước mắt biến nó thành cổ phiếu gán nợ rồi sau này tính sau với tư duy đó thì không nên chuyển đổi thành cổ phần của Vinalines.


Với giả thiết 1, thì những công ty con phải trình được phương án kinh doanh, đồng thời nên công khai trước công chúng để dư luận thấy được sức phục hồi của nó thế nào. Vietinbank là ngân hàng của nhà nước, dùng tiền thuế của người dân để góp vốn cổ phần, do đó người dân có quyền được biết trên cơ sở nào Vietinbank đưa ra quyết định đầu tư như vậy.


Nhưng trong bối cảnh hiện tại, nhất là khi giá xăng dầu đang lao dốc khủng khiếp thế này thì khả năng phục hồi là rất khó khăn. Trước đây, giá dầu cao, VN trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa cho nhiều nước thì cảng biển trở thành nhân tố phát triển rất tốt. Như chúng ta cũng đã chứng kiến sau khủng hoảng năm 2008, rất nhiều đối tác của Trung Đông đến thăm dò, nghiên cứu tại VN đã rút lại việc đầu tư phát triển cảng biển tại VN.


Do đó, điểm chính yếu là các công ty con phải chứng minh được khả năng tài chính và khả năng phục hồi thì khi đó việc đầu tư của Vietinbank mới được cho là hợp lý.


5 năm nữa không nhìn thấy ánh sáng


Như vậy, nếu phương án như trên trở thành tiền lệ cho việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thì sẽ thế nào? Hệ lụy với nền kinh tế ra sao?


Nếu giải pháp này trở thành hữu hiệu thì ở chừng mực nào đó việc chuyển nợ thành cổ phần giúp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Rất nhiều nợ xấu là nợ xấu của những doanh nghiệp có vốn nhà nước. Giải quyết nợ xấu cách này không phải là cách tối ưu nhất nhưng lại hỗ trợ tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn nhà nước


Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thể tạo tiền đề cho các sở hữu chéo phát triển. Nếu các ngân hàng đi quá sâu vào đầu tư kinh doanh, không còn hoạt động đúng chức năng của NHTM thì đây chính là tác dụng ngược trong chủ trương tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.


Khi đó, các NHTM sẽ đi ngược lại với chức năng truyền thống của các ngân hàng thương mại, và đi ngược lại với công ước Basel II mà chúng ta đang muốn áp dụng ở VN nhằm loại bỏ sở hữu chéo, loại bỏ lợi ích nhóm, tạo an toàn của NH, đưa NH vào đúng quỹ đạo chức năng của NHTM. Do đó, nếu chuyện này lan tỏa, tạo thành đại trà thì nó đi ngược lại với công ước này.


Nếu vậy thì giải pháp tối ưu với Vinalines là gì? Với tất cả những cân nhắc trên, cách phù hợp nhất để giải quyết câu chuyện Vinalines là Vinalines phải được xử lý rốt ráo, công khai nợ xấu. có lẽ phải dùng đến giải pháp là dùng tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, số tiền còn lại sẽ được tha nợ.


Việc này chắc chắn sẽ gây thiệt hại rất lớn cho các NH, nhưng thực tế thiệt hại này là xảy ra rồi có điều nó chưa được công nhận trên sổ sách (và chưa được dự phòng đúng mức) và đang được treo trên sổ sách. Nay đã đến lúc phải công nhận thiệt hại đó để “chôn” Vinalines của quá khứ và “phục sinh” bằng một Vinalines mới, cũng như mở một chương mới cho ngân hàng Việt Nam..


Với một Vinalines mới thì nợ xấu không còn nữa, nhà nước sẽ cấp vốn lại cho Vinalines, về phía các ngân hàng phải chấp nhận chịu thiệt, sử dụng dự phòng rủi ro và tìm cách thu hồi lại được đồng nào hay đồng ấy rôìđóng lại trang sử cũ cho Vinalines và mở ra trang sử mới. Nếu cứ dùng dằng như hiện nay thì đến 5 năm nữa cũng không nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.


Theo Báo Đất Việt




6-7 ngân hàng vẫn chưa sáp nhập, vì sao?

6-7 ngân hàng vẫn chưa sáp nhập, vì sao?


Cụ thể, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2014, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, trong năm nay sẽ tiếp tục tiến hành xử lý 6-7 ngân hàng thương mại thông qua sáp nhập.



Đó là một bước tiến nữa về số lượng, sau khi hệ thống về cơ bản đã xử lý được 8/9 ngân hàng yếu kém xác định đợt đầu. Tốc độ tái cơ cấu ngân hàng theo đó diễn ra nhanh chóng.




Thế nhưng, cho đến nay, năm 2014 đã gần qua nhưng vẫn chưa có trường hợp sáp nhập, hợp nhất ngân hàng nào diễn ra trong kế hoạch dự kiến nói trên.




Khi VnEconomy tìm hiểu nguyên do, lãnh đạo cao cấp của Ngân hàng Nhà nước cho biết một nguyên nhân chính: Ngân hàng Nhà nước đã chủ động chậm lại khi xuất hiện cơ hội mới, qua đó kết quả tái cơ cấu nhóm ngân hàng này có thể sẽ tốt hơn nhiều so với dự tính trước đây.




Cuối năm 2011, chủ trương tái cơ cấu được đưa ra. Ngay trong năm 2012, Ngân hàng Nhà nước thực hiện khoanh vùng các ngân hàng yếu kém, cũng như xác định ngay từ đầu định hướng giải quyết.




Thời điểm đó, thanh khoản và an toàn hệ thống đứng bên bờ vực đổ vỡ, theo lời vị lãnh đạo trên, nên cần nhanh chóng khoanh vùng, không chế những rủi ro, triển khai ngay các phương án tái cơ cấu.




Việc xử lý các ngân hàng yếu kém diễn ra nhanh chóng sau đó. Tuy nhiên, nguyên tắc xử lý là tự nguyện. Nhóm 6-7 ngân hàng tái cơ cấu sau đó cũng vậy, tự nguyện và xác định phương án của riêng mình.




"Khi hệ thống tiềm ẩn rủi ro, cần xử lý nhanh và an toàn đặt lên hàng đầu. Kế hoạch và các phương án của những ngân hàng đó, cũng như sự chủ động giám sát và thúc đẩy của Ngân hàng Nhà nước đã có. Lộ trình sáp nhập tiếp 6-7 ngân hàng đã định và công bố", lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết.




Tuy nhiên, sau khi có các phương án và lộ trình trên, vị lãnh đạo chuyên trách trên cho hay, đã xuất hiện các yếu tố mới.




Đó là khi Chính phủ mở cơ chế cho phép sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài, cũng như nguồn lực tư nhân mạnh và đáng chú ý xuất hiện.




Theo ông, nếu cứ theo các phương án và lộ trình trước đây, Ngân hàng Nhà nước nhanh chóng đạt kế hoạch, là xong trách nhiệm. Nhưng so với trước, những yếu tố mới nói trên xuất hiện đã tạo cơ hội cho kết quả tốt hơn.




"Nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã tiếp cận, đặt vấn đề và giá trị các khoản đầu tư có triển vọng lớn hơn so với các phương án tái cơ cấu trước đó. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã xem xét lại để cho chính các chủ thể, các cổ đông có lợi ích tốt hơn hoặc giảm thiểu thiệt hại từ tái cơ cấu", cũng theo đại diện lãnh đạo chuyên trách trên.




Triển vọng đó cũng gắn với quá trình cải thiện hoạt động ngân hàng, môi trường kinh doanh nói chung so với thời điểm "bên bờ vực đổ vỡ" cuối 2011 đầu 2012; đặc biệt là sau khi Ngân hàng Nhà nước đã kiểm soát và chấn chỉnh hoạt động của nhóm ngân hàng trên.




Quan điểm được đưa ra, dù có trường hợp yếu kém, thậm chí có sai phạm trong hoạt động dẫn tới yêu cầu phải tái cơ cấu, nhưng những ngân hàng đó đều là tài sản của cổ đông, của người dân, nên khi có cơ hội để xử lý tốt hơn thì Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện cho họ nắm bắt cơ hội.




Đây là một lý do chính khiến lộ trình sáp nhập 6-7 ngân hàng trên bị chậm lại so với dự tính trước đây.




Nợ công của Việt Nam: Sự lo ngại có bị thổi phồng?

Nợ công của Việt Nam: Sự lo ngại có bị thổi phồng?


Những rủi ro tiềm ẩn của nợ công luôn là mối quan tâm của các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới trong suốt một thời gian dài. Vấn đề được đưa ra là, liệu nợ công có tương đồng với tăng trưởng của nền kinh tế?


Ví dụ, năm 2013, tỷ lệ nợ công/GDP của Nhật Bản là 224% - cao nhất thế giới, nhưng Nhật Bản không có trở ngại trong việc thanh toán nợ do người dân trong nước là người nắm giữ hầu hết các khoản nợ của quốc gia. Điều này làm giảm những mối lo ngại về biến động tỷ giá tiền tệ hay những thay đổi trên thị trường vốn thế giới có thể gây khó khăn cho Nhật Bản trong việc đảo nợ.


Indonesia và Philippines, 2 quốc gia láng giềng của Việt Nam, đã giảm tỷ lệ nợ công/GDP trong những năm gần đây. Tuy nhiên, gánh nặng nợ công giảm có những tác động trái chiều đến 2 quốc gia này. Tỷ lệ nợ công/GDP của Philippines giảm từ 75% trong khoảng một thập kỷ trước đây xuống còn 49% năm 2013. Chính phủ ưu tiên việc giảm nợ công bằng cách tăng thuế và chống tham nhũng trong các khoản chi.


Nhờ đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Standard & Poor’s đã nâng mức xếp hạng cho các khoản nợ dài hạn của Philippines lên mức BBB trong tháng 5/2014. Fitch’s Ratings cũng đã đưa mức xếp hạng tín nhiệm cho quốc gia này ở mức đầu tư vào khoảng 1 năm trước.


Tỷ lệ nợ công/GDP của Indonesia cũng trong xu hướng giảm, giúp Chính phủ có thêm nhiều dư địa để thúc đẩy chính sách tài khóa. Dù vậy, mức tăng trưởng GDP (6%) của quốc gia này được cho là không bền vững, do khối lượng nhập khẩu đã tăng mạnh để đáp ứng nhu cầu nội địa. Trong khi đó, giá trị xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào nhiều loại hàng hóa có giá cả biến động cao. Năng lực sản xuất hầu như không phục vụ đủ nhu cầu tiêu dùng tăng cao.


Trở ngại chính của việc thúc đẩy sản xuất là sự phát triển cơ sở hạ tầng chậm, mà một trong những lý do cơ bản là việc thiếu hụt nguồn kinh phí cấp cho các dự án công trình công cộng. Vì vậy, Indonesia cần phải cân nhắc tới việc tăng nợ công chính phủ để cấp vốn cho các dự án này để quốc gia này phát triển và hưng thịnh hơn.


Nợ công của Việt Nam khá ổn định, ở mức 55% GDP từ năm 2010, nhưng tỷ lệ này dự kiến tăng lên mức 60,3% vào cuối năm 2014. Tuy nhiên, không có nhiều lý do để lo lắng nợ công ở mức này.


Cơ cấu kỳ hạn bảng cân đối kế toán của Chính phủ có thể là nguyên nhân dẫn tới sự lo ngại. Chính phủ vay nợ ngắn hạn chủ yếu thông qua việc phát hành trái phiếu kỳ hạn 1 - 3 năm và cho vay dài hạn đối với các dự án phát triển cơ sở hạ tầng. Hơn nữa, năm 2015 và 2016 là hai năm có khối lượng lớn trái phiếu đáo hạn, do đó có thể đưa đến một số rủi ro đảo nợ.


Trong năm nay, Bộ Tài chính đã điều chỉnh kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ 2 lần, một lần vào tháng 8 và một lần vào tháng 11. Theo đó, tổng khối lượng trái phiếu phát hành tăng 52.000 tỷ đồng (2,44 tỷ USD), tập trung phát hành trái phiếu kỳ hạn dài 10 - 15 năm và giảm bớt khối lượng phát hành trái phiếu kỳ hạn ngắn.


Thêm vào đó, Chính phủ đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu kỳ hạn 10 năm trên thị trường trái phiếu quốc tế, kéo dài kỳ đáo hạn trung bình các khoản nợ của Việt Nam và giảm bớt rủi ro đảo nợ.


Hiện nay, Việt Nam cũng có được lợi thế là hầu hết các khoản nợ (ngoại trừ các khoản tài trợ ODA) là bằng đồng nội tệ và được các ngân hàng trong nước nắm giữ. Điều này đặc biệt có lợi vì các khoản vay bằng đồng nội tệ sẽ giúp Chính phủ giảm tối đa rủi ro ngoại hối.


Ít có khả năng nhà đầu tư trong nước thoái vốn khỏi các khoản đầu tư do những biến động của nền kinh tế toàn cầu hay những sự kiện địa chính trị như những nhà đầu tư quốc tế. Trong trường hợp xấu nhất, Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ in tiền để thanh toán các khoản nợ nội tệ, mặc dù chính sách này sẽ khiến lạm phát tăng cao.


Dự báo gánh nặng nợ công của Việt Nam sẽ giảm trong 5 năm tới nhờ tăng trưởng GDP, gia tăng cơ hội nâng xếp hạng tín dụng cho Việt Nam. Điều này sẽ thu hút thêm nguồn vốn nước ngoài, hỗ trợ thị trường chứng khoán và tăng trưởng kinh tế chung.


Theo Báo Đầu tư




NỆM LIÊN Á